MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT CÔNG CHỨNG NĂM 2024
13/06/2025
Sau 10 năm thi hành Luật Công chứng năm 2014, ngày 01 tháng 7 năm 2025, Luật Công chứng năm 2024 chính thức có hiệu lực với nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, bao gồm 8 chương và 76 điều, giảm 02 chương và 05 điều so với Luật hiện hành. Một số nội dung sửa đổi đáng chú ý như sau:
1. Bãi bỏ Phiếu yêu cầu công chứng trong thành phần hồ sơ
Để tạo thuận lợi cho người yêu cầu công chứng, Luật Công chứng năm 2024 bãi bỏ yêu cầu nộp "Phiếu yêu cầu công chứng" trong hồ sơ đề nghị công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn. Theo đó, kể từ thời điểm luật có hiệu lực, thành phần hồ sơ yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch của người dân chỉ bao gồm 04 loại tài liệu (chi tiết do cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn).
Trước đây, Phiếu yêu cầu công chứng là tài liệu bắt buộc trong bộ hồ sơ công chứng, mặc dù trong hệ thống văn bản pháp luật chưa có mẫu thống nhất bắt buộc áp dụng. Phiếu này chỉ yêu cầu thông tin cơ bản như họ tên, địa chỉ của người yêu cầu công chứng; nội dung cần công chứng; danh mục giấy tờ kèm theo; tên tổ chức hành nghề công chứng tiếp nhận hồ sơ; họ tên người tiếp nhận hồ sơ; thời điểm tiếp nhận hồ sơ. Việc lập thiếu hoặc không có Phiếu yêu cầu công chứng có thể bị xử phạt hành chính từ 01 đến 07 triệu đồng theo quy định tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.
2. Quy định cụ thể về công chứng ngoài trụ sở
Theo quy định tại Điều 46 Luật Công chứng năm 2024, việc công chứng được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ các trường hợp sau đây, việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở:
Công chứng di chúc được lập tại nơi ở của người lập di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự;
Người yêu cầu công chứng không thể đi lại được do lý do sức khỏe; đang điều trị nội trú hoặc bị cách ly theo chỉ định của cơ sở y tế có thẩm quyền;
Người yêu cầu công chứng đang bị tạm giữ, tạm giam; đang thi hành án phạt tù; đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính;
Trường hợp có lý do chính đáng khác theo quy định của Chính phủ.
Cụ thể, theo khoản 1 Điều 43 Nghị định số 104/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Công chứng, “lý do chính đáng khác” bao gồm:
a) Phụ nữ đang mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi;
b) Người cao tuổi, người khuyết tật hoặc người gặp khó khăn trong việc đi lại;
c) Người đang thực hiện nhiệm vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân, công an nhân dân hoặc đang thực hiện công việc được giao tại cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp mà việc rời khỏi vị trí làm việc có thể ảnh hưởng đến nhiệm vụ, công việc hoặc chức trách được giao;
d) Các trường hợp bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người yêu cầu công chứng không thể đến trụ sở tổ chức hành nghề công chứng.
Việc công chứng ngoài trụ sở phải được thực hiện tại địa điểm có địa chỉ cụ thể, phù hợp với lý do yêu cầu công chứng ngoài trụ sở.
3. Quy định giới hạn độ tuổi hành nghề công chứng viên
Điều 10 Luật Công chứng năm 2024 quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên, theo đó cá nhân được xem xét bổ nhiệm công chứng viên phải là công dân Việt Nam, không quá 70 tuổi. Công chứng viên đương nhiên được miễn nhiệm khi đủ 70 tuổi.
Đối với các công chứng viên đã vượt quá 70 tuổi vào thời điểm Luật có hiệu lực nhưng vẫn đang hành nghề, được tiếp tục hành nghề trong thời hạn tối đa 02 năm kể từ ngày Luật Công chứng năm 2024 có hiệu lực; sau thời gian này, công chứng viên đương nhiên được miễn nhiệm.
4. Bãi bỏ miễn đào tạo nghề công chứng đối với thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư hành nghề lâu năm và một số chức danh pháp lý khác
Luật Công chứng năm 2024 bãi bỏ quy định về miễn đào tạo nghề công chứng đối với các đối tượng có trình độ pháp luật cao. Theo đó, mọi cá nhân được xem xét bổ nhiệm công chứng viên đều phải tham gia khóa đào tạo nghề công chứng. Cụ thể:
Thời gian đào tạo nghề công chứng là 12 tháng đối với người chưa có kinh nghiệm pháp lý;
Các đối tượng từng là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên có thời gian công tác từ 5 năm trở lên; luật sư hành nghề từ 5 năm trở lên; giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật; tiến sĩ luật; thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án; kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật... phải tham gia đào tạo nghề công chứng với thời gian rút ngắn còn 06 tháng.
Cơ sở đào tạo nghề công chứng do Chính phủ quy định. Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền quy định về chương trình khung đào tạo nghề công chứng và công nhận tương đương đối với trường hợp đã hoàn thành chương trình đào tạo nghề công chứng tại nước ngoài.
So với quy định cũ, nhiệm vụ này trước đây đều do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện.
Trung Anh